Lê vàng, một giống lê, cây rụng lá, được nhân giống vào thế kỷ 20 bởi chi nhánh Naju của khu thử nghiệm làm vườn Hàn Quốc, và được đặt tên vào năm 1984. Quả dẹt và tròn, trọng lượng trung bình 350 gam một quả , chín vào đầu tháng 9. Vỏ quả có màu xanh vàng khi chín và chuyển sang màu vàng vàng khi bảo quản. Vỏ cực sạch, khi đóng túi vỏ có màu vàng vàng và trong suốt. Lá non màu xanh vàng, phiến lá non ôm, tư thế lá nằm ngang, có lông trắng, mép lá nông, rậm; Lá chín già hình thuôn dài, màu xanh đậm, nhọn ở đỉnh, mép lá có răng cưa rõ, gân lá rõ. Chồi hàng năm có màu vàng nâu, gốc chồi có dạng củ sau khi chồi sinh trưởng bị che phủ, chiều cao cành trong năm đó có thể đạt tới hơn 100cm. Lỗ chân lông có màu nâu nhạt, hình bầu dục hoặc hình thoi, lồi, dày đặc. Mỗi cụm hoa có 4~6 hoa, nụ màu trắng, 6 cánh hoa, hình bầu dục, 19~25 nhị, bao phấn màu hồng nhạt, đầu nhụy cao hơn bao phấn.
Phân phối bản địa của nó chỉ giới hạn ở Âu Á và các đảo của nó, và phân phối của nó không được tìm thấy ở Bắc và Nam Mỹ. [2] Được sản xuất ở Bắc Phi, Châu Á và Châu Âu. Có 15 loài ở Trung Quốc; Có 7 loài ở Vân Nam.
Thịt mềm và mọng nước, màu trắng, ít tế bào đá và lòng nhỏ. Hàm lượng đường có thể đạt tới 14,7%. Vị ngọt và thơm. Hương vị độc đáo và chất lượng tuyệt vời. Hoa dễ dàng thường phát triển thành hoa và quả vào năm sau sau khi trồng. Thụ phấn chéo, cực kỳ năng suất. Lê là "bách phái của một trăm loại trái cây". Lê vàng là một loại lê. Vì mềm và mọng nước, chua ngọt nên còn được gọi là "nước khoáng thiên nhiên". Lê có dược tính. Lê tính mát, ngọt hơi chua, vào phổi, dạ dày thông kinh, có thể sinh tân dưỡng ẩm, thanh nhiệt hóa đàm, chủ yếu trị thương do sốt, ho nóng, bứt rứt, điên cuồng, nghẹn, táo bón các loại triệu chứng, cũng như ho có đờm , dưỡng âm dưỡng phổi, giải độc, giải độc rượu và các tác dụng khác.